Hiện
nay trên địa bàn huyện, cả 40 xã, thị trấn, hàng năm bà con nông dân ta gieo
trồng khoảng 15.000 ha lúa, 6.000 ha ngô, 3.000 ha sắn, 2.000 ha lạc, 2.500 ha
đậu, 3.000 ha rau các loại, nhưng chỉ tại 17 xã vùng hữu ngạn sông Lam đã
trồng, chăm sóc đến 4.500 ha chè công nghiệp. Có nhiều xã, diện tích chè công
nghiệp lớn hơn nhiều lần diện tích các cây trồng khác. Ví dụ, xã Thanh Đức có
869,92 ha chè (cả XN và Tổng đội 2), trong khi đó lúa chỉ 123 ha, ngô 13 ha,
sắn 100 ha; xã Thanh Thủy diện tích chè 773,9ha (chưa kể phần diện tích thuộc
Xí nghiệp chè Ngọc Lâm), trong khi đó lúa chỉ 133 ha, ngô 48 ha, sắn 160 ha; xã
Thanh An diện tích chè 500,4 ha, nhưng lúa chỉ 205 ha, ngô 37 ha, sắn 90 ha; xã
Thanh Mai có 587,58 ha chè, nhưng lúa chỉ 360 ha, ngô 28 ha, sắn 50 ha … Thế
nhưng, một thực tế là công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, chính quyền,
sự vào cuộc của các đoàn thể đối với cây chè đang còn hạn chế. Nếu thống kê thì
số văn bản và hội nghị hàng năm của các cấp để chỉ đạo đối với cây lúa, cây màu
thì nhiều nhưng đối với cây chè thì quả thật là không đáng kể, do đó, hiệu quả
của cây chè chưa xứng với tiềm năng trên địa bàn huyện.
 Đồi chè xã Ngọc Lâm, huyện Thanh Chương

Nhằm
thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Huyện Đảng bộ lần thức XXX, đối với cây
chè cần thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm sau đây:
1.
Ngành Nông nghiệp và đặc biệt là cấp ủy, chính quyền và các đoàn thể các xã có
chè coi công tác lãnh đạo, chỉ đạo phát triển cây chè là một nhiệm vụ trọng
tâm, thường xuyên, liên tục. Đình kỳ tổ chức các hội nghị để quán triệt chủ
trương, chính sách, sơ, tổng kết, thi đua, khen thưởng…
2.
Làm tốt công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch. Quy hoạch đối với cây chè chú
ý 2 nội dung chính là đất trồng và giống. Đất trồng chè yêu cầu phải có độ dày
tầng đất mặt từ 80cm trở lên, có như vậy thì vào những thời điểm hạn nặng mới
hạn chế được chè bị chết.
Đối
với giống chè, chủ lực dùng giống LDP2, vì đây là giống chịu hạn, năng suất
cao, chất lượng cao, ít bị mối, tuy nhiên, phải lưu ý là giống này hóa gỗ
nhanh, nên phải hái đúng thời điểm. Trong đợt hạn hán năm 2015 này cho thấy chè
LDP2 ít bị chết nhất, còn PH1 thì chế rất nhiều.
Việc
quản lý quy hoạch cần thực hiện nghiêm túc. Những hộ nào trồng trên đất không
được quy hoạch, không sử dụng giống được ngành Nông nghiệp cho phép thì dứt
khoát không được hưởng các cơ chế chính sách. Phải thấm nhuần rằng để dân trồng
chè trên đất có tầng đất mặt mỏng, dùng giống không chịu hạn chính là làm hại
dân.
3.
Thật sự quan tâm đến việc hướng dẫn các biện pháp kỹ thuật trong trồng, chăm
sóc chè. Về kỹ thuật, chú những vấn đề sau:
-
Trồng chè: Chú ý đào rãnh sâu 40-50cm để rễ chè ăn sâu, hạn chế chè bị chết do
hạn. Chè sẽ bền gốc, thời gian kinh doanh dài.
-
Bón phân: Bón phân cân đối. Vào mùa nắng to (từ tháng 5 trở đi), nếu bón phân
nhiều, nhất là phân đạm mà không tưới được, lại hái bằng máy, chè dễ bị chết do
hạn.
-
Trồng cây che bóng: Nên trồng cây họ đậu, tán cao, che bóng tốt nhưng không
cạnh tranh dinh dưỡng với cây chè (cây tròi là cây có nhiều ưu điểm).
-
Đốn chè: Nên đốn vào thời điểm hanh khô, vì như vậy ít nấm bệnh xâm nhập qua
vết cắt.
-
Nên phun phân vi sinh khi đốn để vi sinh vật có lợi phát triển mạnh làm sạch
cây chè, ít bệnh, đất xốp, giàu mùn. Khi chè cho búp, phun phân vi lương, trung
lượng qua lá, làm tăng năng suất (phổ biến tăng 20-25%), chống hạn tốt, tăng
hiệu quả cho người trồng chè (các loại phân này ngành nông nghiệp đã xây dựng
mô hình).
-
Hái chè: Hái đúng tiêu chuẩn kỹ thuật.
Kỹ
thuật trồng, thu hái chè đã có quy chuẩn của Nhà nước, tuy nhiên, phải tổng hợp
từ thực tiễn, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của địa phương, phát hiện
những kinh nghiệm hay để kịp thời khuyến cáo cho dân nhằm tránh tổn thất trong
quá trình sản xuất, kinh doanh.
4.
Chỉ đạo quyết liệt công tác thủy lợi cho chè. Hàng năm, trên địa bàn huyện đều
có chè bị chết do nắng hạn, riêng hạn hán năm 2015, toàn huyện có 426,15 ha bị
chết trên 70%, có 523,47 ha bị chết từ 30-70%. Các vùng trồng chè, nếu đắp các
hồ đập nhỏ để trữ nước, đào, khoan giếng thì đều có nước để tưới. Nếu trong mùa
hạn chỉ tưới 1-2 lần ở 1/3 đầu mùa hạn thì cũng đã hạn chế được tỷ lệ chè bị
chết. Cũng trong mùa hạn 2015, điều đáng buồn là nhiều vườn chè gần kề hồ đập
có nước nhưng chè vẫn bị chết, điều đó chứng tỏ một số cấp ủy, chính quyền chưa
quan tâm đôn đốc người trồng chè.
Phan
Đình Hà
|